<aside> 💡 Bài viết: Anh Kha & Hoàng Long Minh họa: Hoàng Long
</aside>
<aside> 💡 Đây là một ghi chú phục vụ việc học mà chúng mình sẽ cập nhật theo thời gian. Ghi chú thể hiện góc nhìn tạm thời của chúng về chủ đề nghiên cứu nên sẽ không tránh khỏi những lập luận thiếu sót. Mình rất mong nhận được góp ý của bạn bằng cách inbox mình trên Facebook cá nhân.
</aside>
Chúng ta tiếp nhận thông tin thông qua working memory bao gồm quá trình mã hóa/ xử lý thông tin (encoding). Việc mã hoá là quá trình đưa thông tin vào bộ não của chúng ta. Nếu không được xử lý đúng cách, bộ nhớ sẽ không có gì để chúng ta truy hồi (retrieve) sau này. Để hiểu chi tiết hơn về quá trình mã hoá, song song với mô hình bộ nhớ đa lưu trữ (Multi-Store Model of Memory) của Atkinson và Shiffrin (1968) và mô hình bộ nhớ làm việc (working memory) của Alan Baddeley (1992), lý thuyết mã kép (dual coding theory) của Paivio và đồng nghiệp (1987) sẽ đi sâu vào hành trình xử lý thông tin ở những giai đoạn đầu.
Theo Paivio và đồng nghiệp (1987), có hai cách chính mà chúng ta tiếp thu thông tin. Cách này được phân loại dựa trên hai thông tin mà chúng ta nhận được. Chúng bao gồm: (1) thông tin không dùng lời (nonverbal stimuli) như hình ảnh, biểu tượng và (2) thông tin dùng từ ngôn ngữ (verbal stimuli). Hai loại thông tin này đến từ môi trường xung quanh được xử lý bởi bộ não theo cách khác nhau và độc lập.

Theo lý thuyết mã kép, cả thông tin ngôn ngữ và phi ngôn ngữ đều đi qua hệ thống giác quan để lọc ra các đặc trưng cụ thể. Sau đó, chúng được phân chia vào hai bộ máy xử lý thông tin khác nhau: hệ thống ngôn ngữ (verbal system) hoặc phi ngôn ngữ (non-verbal system). Nếu thông tin liên quan đến ngôn ngữ, như các ký tự, âm vị (như "n", "o", "s", "e"), hoặc từ ghép (ví dụ: "nose"), hoặc các câu chữ, thì nó thuộc về đơn vị thông tin gọi là Logogen ở hệ thống ngôn ngữ. Ngược lại, nếu thông tin là phi ngôn ngữ, như hình ảnh, biểu tượng, hoặc hình tượng những thứ mà ta thấy, nghe, trải nghiệm, thì nó thuộc về đơn vị thông tin gọi là Imagen ở hệ thống phi ngôn ngữ.
Mình nghĩ rằng, đây là lý do vì sao, khi bạn xem một video Youtube, bạn vừa có thể tiếp nhận cùng lúc thuyết trình và hiểu được hình ảnh minh họa xuất hiện trên video.


Dual-coding theory liên hệ gần gũi với một hiện tượng có tên là “Modality effect“. Modality effect là hiện tượng khi học sinh sử dụng cả hai kênh (thị giác - visual và ngôn từ - auditory) khi tiếp nhận thông tin, sẽ tiếp thu hiệu quả hơn so với chỉ dùng một kênh (chỉ thị giác hoặc ngôn từ) theo Rena Low (2022).
Mayer và Moreno (1998) đã làm thử nghiệm trên học sinh, những học sinh nghe giải thích bằng âm thanh kèm với hình minh họa (visual + audio) có điểm số tốt hơn so với những sinh viên xem hình ảnh đi kèm chữ trên màn hình (visual + text). Kết quả nghiên cứu cho thấy, khi xem hình minh họa, học sinh tiếp nhận thông tin dễ hơn nếu những thông tin được nói thành lời (audio) thay vì văn bản (text).
Hình ảnh dưới đây so sánh giữa việc xử lý thông tin bằng lời thoại đi kèm với hình ảnh (visual + audio) mang lại lợi thế hơn so với hình ảnh và văn bản xuất hiện trên màn hình (visual + text)


Để lý giải cho hiện tượng này, các nhà nghiên cứu đã giải thích bằng khái niệm Split-attention - bị phân tâm chú ý (Chandler & Sweller, 1991). Split-attention là khái niệm được dùng khi mô tả việc người học bị phân tâm sự chú ý giữa hai hay nhiều nguồn thông tin giống nhau (Ví dụ, văn bản và đồ họa), quá trình này có thể tạo thêm tải trọng nhận thức (cognitive load) trong quá trình học.
Sau đây là một số điều mình học của mình trong quá trình nghiên cứu về Dual-coding theory cùng với Anh Kha: